Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật dân sự 2015 quy định về điều kiện tuyên bố mất tích như sau:
“1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
…”.
Khi tòa án tuyên bố một người mất tích sẽ xác định người quản lí tài sản cho người đó, theo quy định tại Điều 69 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
“Điều 69. Quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích
Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Tòa án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 66 và Điều 67 của Bộ luật này.
Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.”
Như vậy, sau khi Tòa án tuyên bố cô 10 mất tích thì đồng thời Tòa án cũng sẽ xác định một người thân thích sẽ là người quản lý phần đất là tài sản thừa kế của người mất tích và phải có nghĩa vụ giao lại phần đất này khi người mất tích trở về theo quy định tại khoản 4 Điều 66 Bộ luật dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú:
“4. Giao lại tài sản cho người vắng mặt khi người này trở về và phải thông báo cho Tòa án biết; nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”
Trường hợp sau 3 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, thì có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố người mất tích đã chết theo quy định tại khoản 1 Điều 71 Bộ luật dân sự 2015.
Về giải quyết tài sản của người tuyên bố là đã chết: Căn cứ tại khoản 2 Điều 72 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:
“2. Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.”
Căn cứ quy định trên, khi Tòa án tuyên bố người mất tích là đã chết thì phần đất là tài sản thừa kế sẽ được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Mọi chi tiết xin liên hệ: Văn phòng Luật sư Quang Thái, số 12 Mạc Đĩnh Chi, phường Đakao, Quận 1, TP. HCM.
Website: luatsuquangthai.vn
Email: tuvan@luatsuquangthai.vn
Điện thoại: 0903.888.087